Sau Thế chiến thứ hai, nền kinh tế và công nghiệp bùng nổ, người dân có rất nhiều tiền để mua ô tô, nhà ở và mọi thứ xa xỉ. Điều này dẫn đến sự gia tăng vượt bậc về việc ra đời các dòng xe “sành điệu” của những năm 1950 - thời kỳ dư thừa của người Mỹ...
Chiếc xe 4 cửa từ năm 1957 được trang bị động cơ 300 mã lực có tỷ số nén 10,0:1 giúp tăng tốc dễ dàng. Tuy nhiên, động cơ không phải là thứ duy nhất khiến Century trở thành một chiếc xe tuyệt vời (mặc dù những con số đó vẫn đáng nể cho đến tận ngày nay).
Lý do chính khiến chiếc xe này trở nên bất tử là nhờ những tính năng sang trọng, an toàn và tiện lợi mà thương hiệu Buick đã sẵn có. Các trang bị tiêu chuẩn bao gồm đèn cốp, khung biển số, vỏ bánh xe, bật lửa và đèn xi nhan.
Buick Roadmaster được sản xuất từ năm 1936. Các biến thể được sản xuất trong những năm 50 là những mẫu xe hàng đầu của thương hiệu, được xây dựng trên chiều dài cơ sở không phải xe limousine dài nhất của Buick. Họ cũng được biết đến với sự thay đổi lớn về kiểu dáng thời hậu chiến bao gồm chiều dài ngắn hơn và kính chắn gió cong 2 mảnh lớn hơn.
Những chiếc Roadmasters của thập niên 50 cũng có dòng chữ "VentiPorts" hiển thị trên mỗi chắn bùn phía trước để thông gió cho khoang động cơ và biểu thị số lượng xi-lanh dưới mui xe của mẫu xe nhất định.
Được đặt theo tên một loài chim, Skylark được giới thiệu vào năm 1953 để kỷ niệm 50 năm thành lập Buick và đã trải qua quá trình sản xuất kéo dài 46 năm và sáu thế hệ. Trong giai đoạn này, nó đã trải qua nhiều thay đổi về thiết kế do tiến bộ công nghệ, sở thích ngày càng phát triển và các tiêu chuẩn ngành thay đổi.
Ban đầu là một mẫu xe chở khách hạng sang, sau đó nó chuyển sang dạng xe saloon thể thao và sau đó thành một chiếc xe cơ bắp hạng nặng. Thế hệ thứ nhất có thiết kế sang trọng với chiều dài hơn 5,3m, trọng lượng 2 tấn với nhiều chi tiết mạ crôm và động cơ V8 322 cu-in mạnh mẽ mang lại tốc độ tối đa 103mph.
Được sản xuất bởi Chevrolet từ năm 1950, Bel Air được biết đến với thiết kế đẹp mắt và phần đuôi đặc trưng. Chiếc xe là biểu tượng của phong cách thập niên 50 và vẫn là "chiếc xe hot".
Ngoài vẻ ngoài, Bel Air còn được biết đến với động cơ V8 mạnh mẽ. Một chiếc Bel Air 1953 được thử nghiệm đã tăng tốc từ 0 - 100km/h trong 19,6 giây.
Impala 1958 có lẽ là ví dụ điển hình nhất về thiết kế của Harley Earl. Nó ra mắt rất nhiều tính năng đã định hình những chiếc xe thuộc phân khúc này trong thập kỷ tiếp theo, bao gồm rất nhiều chi tiết mạ crôm, chắn bùn được chạm khắc sâu, đèn pha kép và đèn hậu ba.
Nó được cung cấp dưới dạng mui cứng 2 cửa hoặc mui trần 2 cửa và đi kèm với tùy chọn động cơ 3,9L, 4,6L hoặc 5,7L. Nền tảng này của Impala phổ biến đến mức GM đã chia sẻ nó với nhiều mẫu xe khác của Buick, Oldsmobile và các thương hiệu chị em khác.
Được sản xuất từ năm 1940 - 1996, Chrysler New Yorker vẫn là sản phẩm hàng đầu của thương hiệu trong suốt thời gian hoạt động và là bảng tên tồn tại lâu nhất sau khi ngừng sản xuất.
Pha trộn sự thoải mái với phong cách và sức mạnh, nó cạnh tranh với các mẫu xe cao cấp của Buick, Mercury và Oldsmobile và tiếp tục đưa Chrysler trở thành một nhà sản xuất ô tô cao cấp.
New Yorker có sẵn dưới dạng sedan, coupe và mui trần… và nhận được nhiều nâng cấp về động cơ trong suốt quá trình sản xuất, với phiên bản năm 1959 có động cơ V8 413 cu-in tạo ra 350 mã lực.
Kể từ khi ra mắt lần đầu vào năm 1955 với tên gọi “Chiếc xe mạnh mẽ nhất nước Mỹ”, Chrysler 300 đã vô cùng nổi tiếng. Mẫu đầu tiên được gọi là C-300 do có động cơ tiêu chuẩn 300 mã lực (331 cu-in FirePower V8).
Mẫu năm 1965 được đặt tên là 300B và một chữ cái mới trong bảng chữ cái đã được thêm vào làm hậu tố để biểu thị mẫu này trong tất cả các năm tiếp theo, kết thúc bằng 300L vào năm 1965.
Đây là lý do đằng sau danh pháp dãy chữ cái. Chrysler giới thiệu lại ký hiệu "300" cho dòng xe sedan sang trọng hiệu suất cao vào năm 1999.
Cadillac Eldorado được sản xuất cho 12 thế hệ từ năm 1952 - 2002 và trong suốt thời gian này, nó vẫn là sản phẩm đắt nhất hoặc là một trong những sản phẩm đắt nhất trong dòng sản phẩm cao cấp.
Mẫu xe đầu tiên ra mắt vào năm 1953 đã chứng kiến chỉ có 532 chiếc xe mui trần rời khỏi dây chuyền lắp ráp, trong đó Marilyn Monroe là một trong những chủ sở hữu đáng tự hào.
Ban đầu nó được phát hành để kỷ niệm lễ kỷ niệm vàng của Cadillac, như được gợi ý bởi cái tên, có nghĩa là "cái vàng" trong tiếng Tây Ban Nha.
Lee Arnold Petty (14/3/1914 – 5/4/2000) là một tay đua xe cổ người Mỹ đã thi đấu trong những năm 1950 - 1960. Ông là tộc trưởng của gia đình đua xe Petty. Là nhà vô địch 3 lần đầu tiên của NASCAR.
Trở lại những năm 1950, Oldsmobile không phải là đối thủ lớn trong cuộc đua ô tô (theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng), nhưng Super 88 đã lọt vào mắt xanh của tay đua xe cổ huyền thoại Lee Petty.
Petty và con trai đã đua chiếc xe này trên bãi cát Daytona, khiến chiếc xe trở thành một cái tên quen thuộc ở Mỹ. Oldsmobile sau đó bắt đầu cung cấp các phiên bản xe đua và hiệu suất cao hơn giúp tăng mã lực, tăng độ bền và độ tin cậy của động cơ.
Được coi là một trong những chiếc Pontiac lớn nhất từng được chế tạo, Bonneville được sản xuất từ năm 1957 - 2005. Chiếc xe dài... gần 6m.
Bonneville 1958 có sẵn dưới dạng mui trần 2 cửa hoặc mui cứng và đạt tiêu chuẩn với động cơ V8 370 cu-in công suất 255 mã lực với ống xả kép và bộ chế hòa khí bốn thùng. Chiếc xe được đặt theo tên Bonneville Salt Flats của Utah (một địa điểm đua ô tô đầu tiên ở Mỹ) và đã lọt vào Indianapolis 500 (một cuộc đua ô tô hàng năm được tổ chức tại Indianapolis Motor Speedway (IMS) ở Speedway, Indiana, Mỹ) trong năm đầu tiên.
Được ra mắt với tư cách là mẫu xe chủ lực trong dòng sản phẩm cỡ lớn của Ford, Fairlane vẫn được sản xuất từ năm 1955 - 1970 và được đặt theo tên bất động sản của Henry Ford ở Dearborn, Michigan.
Trong suốt 15 năm hoạt động, nó đã trải qua 7 thế hệ với nhiều kiểu dáng thân xe đa dạng. Fairlane 500 được ra mắt vào năm 1957 với tư cách là phiên bản cao cấp nhất, trong đó Skyliner mui trần là biến thể nổi bật nhất.
Đó là một chiếc mui cứng có thể thu vào bằng điện và phần mui chắc chắn của nó sẽ có bản lề và gập vào không gian cốp xe chỉ bằng một nút bấm.
Năm 1948, thương hiệu Lincoln nhanh chóng mất uy tín với tư cách là một nhà sản xuất ô tô hạng sang bình dân. Để “thiết lập” lại hình ảnh thương hiệu, các giám đốc điều hành của Ford đã nghĩ ra Capri, cung cấp một chiếc sedan, một chiếc coupe mui cứng không trụ và một chiếc mui trần.
Được trang bị động cơ V8 318 cu-in, cửa sổ chỉnh điện, phanh chỉnh điện và ghế băng phía trước chỉnh điện, Capri đã làm sống lại tên tuổi của thương hiệu Lincoln, một lần nữa khẳng định nó là thương hiệu xe sang nội địa của Mỹ.
Thương hiệu Edsel được Ford thành lập nhằm thu hẹp khoảng cách giữa họ với GM vào thời điểm đó. Được giới thiệu là thương hiệu xe ô tô của tương lai, Edsel đã ra mắt những chiếc xe có một số tính năng thực sự sáng tạo.
Chúng bao gồm các nút ấn trên vô lăng để điều khiển hộp số tự động, đồng hồ tốc độ hình vòm lăn và lưới tản nhiệt hình cổ ngựa mang tính biểu tượng, đặc biệt hơn bất kỳ thương hiệu nào khác vào thời điểm đó.
Fleetwood Series Sixty- Special đã gây một “cơn bão” trên toàn thế giới khi ra mắt vào năm 1959 với tư cách là chiếc Caddy duy nhất có thân xe Fleetwood không phải là xe limousine.
Cánh đuôi đặc biệt của chiếc xe này đã trở thành đặc điểm nhận dạng của tất cả những chiếc xe cùng thời, là chiếc cao nhất trong mẫu xe này. Ngoài thiết kế nổi bật, mẫu xe còn được trang bị tất cả những tiện nghi xa hoa có từ những năm 1950.
Sản phẩm hàng đầu của Packard vào giữa những năm 1950, vùng Caribe, là nỗ lực cuối cùng của thương hiệu nhằm khẳng định mình là nhà sản xuất ô tô hạng sang cao cấp. Với bản phát hành này, Packard cuối cùng đã từ bỏ lòng trung thành của mình với số 8.
Caribe đã giới thiệu động cơ V8 352 cu-in 275 mã lực để đối đầu với thách thức từ Lincoln, Cadillac và Imperial... và trên thực tế, nó đã vượt qua đối thủ chính (Cadillac Eldorado) cả về mã lực và mô-men xoắn. Nó thực sự “siêu đẹp” và... “siêu chất”.
Patrician, được thiết kế bởi John Reinhart, là một hướng thiết kế xe ô tô mới của Packard. Đây là chiếc xe đầu tiên của thương hiệu áp dụng thiết kế ba hộp, hiện đại hơn vào thời điểm đó.
Nhìn tổng thể, có thể thấy mui xe hơi dài, đó là vì bên dưới nó là động cơ 8 xi-lanh thẳng hàng, sản sinh công suất 155 mã lực và được liên kết với các bánh xe bằng hộp số tự động Ultramatic.
Đừng nhầm lẫn với mẫu xe cùng tên của Brazil của những năm 1970. Galaxie là một chiếc ô tô cỡ lớn được sản xuất và bán tại thị trường Mỹ từ năm 1959 - 1974.
Tên của chiếc xe này được lấy cảm hứng từ cuộc đua vào vũ trụ giữa 2 cường quốc thời đó: Liên Xô (cũ) và Mỹ.
Khi Galaxie ra mắt vào năm 1959, nó đứng đầu dòng sản phẩm xe Ford và được cung cấp dưới dạng mui trần cũng như mui cứng.
Daytona là tên của một thành phố ở Florida, vào đầu thế kỷ trước, Daytona bắt đầu thu hút những người đam mê môn thể thao đua xe trên bãi biển rộng mịn, cát mịn, lý tưởng cho những nỗ lực kỷ lục tốc độ trên đất liền.
Được sản xuất từ năm 1955 - 1989, trong đó các mẫu từ 1956 đến 1958 được sản xuất như một dòng phụ của Belvedere. Đặc trưng bởi vây đuôi những năm 50 và logo theo chủ đề nguyên tử, Plymouth Fury được trang bị động cơ V8 303 cu-in.
Mẫu xe năm 1958 đã gây chú ý khi đạt tốc độ hơn 230km/h tại Daytona với tư cách là một chiếc xe đua thử nghiệm và trở thành biểu tượng trong tiểu thuyết kinh dị nổi tiếng của Stephen King và bộ phim sau này là Christine , trong đó chiếc “58 Fury” màu đỏ đầy đe dọa đã trở thành sự hiện diện đầy ám ảnh.
Được sản xuất từ năm 1956 - 1958 bởi Tập đoàn Studebaker, Golden Hawk là một chiếc xe cá nhân sang trọng mui cứng 2 cửa không trụ và là mẫu xe hàng đầu của thương hiệu.
Động cơ V8 352 cu-in sản sinh 275 mã lực mạnh mẽ của Packard khiến nó trở thành một trong những chiếc xe nhanh nhất vào thời điểm đó. Mẫu xe năm 1956 là chiếc xe đầu tiên của Studebaker có vây đuôi được làm bằng sợi thủy tinh. Các mẫu tiếp theo có vây đuôi bằng thép.
Bảng tên Crown Victoria đã cũ nhưng nó không chỉ cũ như những năm 1980 mà còn có từ những năm 1950. Cái tên ra mắt cùng với chiếc xe này, mẫu xe chủ lực của Fairlane vào năm 1955.
Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của Crown Vic cũ là kính chắn gió bao quanh toàn bộ mặt trước... và đôi khi nó còn mở rộng ra để biến toàn bộ phần mui trên hàng ghế trước thành một cửa sổ trời cố định khổng lồ.
Theo Tạp chí Thương gia.
Đăng nhập để có thể bình luận bài viết