Hàng hóa Việt Nam cạnh tranh sòng phẳng trên nhiều thị trường xuất khẩu
Theo ông Chu Thắng Trung – Phó Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại (PVTM) Bộ Công Thương, thực hiện chủ trương đổi mới, mở cửa từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu, hiện đã tham gia tổng cộng 15 hiệp định thương mại tự do (FTA) cả song phương và nhiều bên.
Ông Chu Thắng Trung - Phó Cục trưởng Cục PVTM (Bộ Công Thương).
Ông Chu Thắng Trung nhấn mạnh, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT) nêu trên đã góp phần thay đổi căn bản thể chế kinh tế nói riêng và nền kinh tế của Việt Nam nói chung, thể hiện rõ nhất qua hoạt động ngoại thương.
Nếu kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2007 (khi gia nhập WTO) là 100 tỷ USD thì năm 2022 đã lên hơn 730 tỷ USD (tăng hơn 7 lần), đưa Việt Nam vào top những nền kinh tế có quy mô ngoại thương lớn nhất trên thế giới. Trong cùng giai đoạn, xuất khẩu đã tăng từ mức gần 50 tỷ USD năm 2007 lên đến hơn 370 tỷ USD vào năm 2022 (tăng hơn 7 lần).
Trong hơn 20 năm qua, thế giới biến động không ngừng từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, dịch COVID-19, cuộc chiến giữa Nga - Ukraina và gần đây nhất là lạm phát toàn cầu, nhưng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam vẫn liên tục tăng qua các thời kỳ.
“Những con số vừa nêu cho thấy năng lực của nhiều ngành sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam đã cao hơn, hàng hóa đã thâm nhập được và cạnh tranh sòng phẳng trên nhiều thị trường xuất khẩu. Hiện Việt Nam là nước duy nhất trên thế giới có FTA với hầu hết các nền kinh tế lớn nhất trên thế giới (Mỹ, châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản...). Đây là tác động tích cực của HNKTQT”, ông Chu Thắng Trung nhấn mạnh.
Doanh nghiệp Việt Nam phải chấp nhận cạnh tranh, không thể bảo hộ mãi
Tuy nhiên ông Chu Thắng Trung cũng nêu rõ, HNKTQT có 2 mặt, bên cạnh tích cực, thuận lợi là khó khăn, thách thức. Cụ thể là hàng hóa nhập khẩu cũng vào trong nước nhiều hơn và cạnh tranh rất quyết liệt với hàng hóa trong nước, ví dụ như thép, đường... Đó là hệ quả tất yếu của việc mở cửa nền kinh tế và hội nhập với thế giới bên ngoài.
Vì những lợi ích cơ bản của HNKTQT như nêu trên, Việt Nam chấp nhận và sẵn sàng cạnh tranh sòng phẳng, bình đẳng. Do vậy, doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh, phải tự lớn lên, tự phát triển, sản xuất chuẩn chỉ, làm ăn chân chính chứ không thể bảo hộ mãi.
Cục trưởng Cục PVTM đặt vấn đề: “Trong bối cảnh mở cửa nền kinh tế và đưa ra các cam kết về xóa bỏ hàng rào thuế, hàng rào phi thuế thì làm thế nào để bảo đảm môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa sản xuất trong nước, làm sao để bảo vệ các doanh nghiệp làm ăn chân chính, chuẩn chỉ?”.
Ông cho biết, để xử lý vấn đề này, các nhà đàm phán của các thành viên WTO trước đây, hay các hiệp định FTA hiện nay, đã thiết kế một công cụ đặc biệt là PVTM, bao gồm các biện pháp như chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ.
Công cụ PVTM xuất hiện từ rất sớm và được sử dụng thường xuyên trong thương mại quốc tế. Biện pháp này ra đời và phát triển cùng với tiến trình tự do hóa thương mại quốc tế. Theo thống kê của WTO, kể từ khi WTO ra đời đến nay, các nước đã khởi xướng điều tra gần 8.000 vụ chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ.
Đáng chú ý, những năm gần đây số lượng các vụ việc PVTM của nước ngoài đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam là rất lớn và có xu hướng gia tăng. Lý do chính các nước kiện PVTM đánh vào hàng xuất khẩu từ Việt Nam là do xuất khẩu của nước ta tăng rất nhanh trong thời gian qua.
Nhờ tác động tích cực của tiến trình HNKTQT và tham gia các hiệp định FTA, nhiều mặt hàng của Việt Nam đã tạo ra sức ép cạnh tranh lớn tại thị trường nước nhập khẩu, khiến ngành sản xuất tại các nước này đề nghị Chính phủ họ điều tra áp dụng các biện pháp PVTM.
Gần đây, số lượng các vụ việc chống lẩn tránh nhằm vào hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam đang có dấu hiệu tăng lên do một vài nước cho rằng hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam sử dụng nguyên liệu chính được nhập khẩu từ những khu vực đang bị họ áp dụng biện pháp PVTM (như thép, nhôm...).
Chủ động sử dụng công cụ PVTM để để bảo vệ lợi ích chính đáng
Ở chiều ngược lại, ông Chu Thắng Trung cho biết, mặc dù PVTM là nội dung rất chuyên môn và kỹ thuật với Việt Nam, nhưng những năm gần đây nước ta cũng bắt đầu chủ động sử dụng công cụ PVTM trong bối cảnh cảnh đang hội nhập ngày càng sâu vào kinh tế khu vực và kinh tế thế giới.
Đối tượng khởi kiện là các sản phẩm thép, kính nổi, dầu ăn, bột ngọt, phân DAP, màng BOPP, nhôm, ván gỗ, sợi và gần đây nhất là đường mía…, nhằm thiết lập môi trường cạnh tranh công bằng và bảo vệ lợi ích chính đáng của ngành sản xuất trong nước.
Đáng chú ý, với vai trò của các biện pháp PVTM trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra chủ trương “chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế”.
Biện pháp PVTM có tác động nhiều mặt, nhiều đối tượng (ví dụ vụ đường mía: nông dân trồng mía, doanh nghiệp sản xuất đường, doanh nghiệp sử dụng đường để sản xuất, người tiêu dùng) và lâu dài chứ không phải là những lợi ích trước mắt. Các biện pháp này có thể xuất hiện cả ở chiều xuất khẩu lẫn chiều nhập khẩu. Vì vậy thời gian qua PVTM nhận được sự quan tâm rất lớn của các hiệp hội, ngành sản xuất, xuất khẩu.
“Nắm bắt xu thế này, Cục PVTM đang tích cực phối hợp hỗ trợ các cơ quan quản lý nhà nước của các địa phương, các hiệp hội, doanh nghiệp sản xuất, xuất nhập khẩu… chủ động hơn trong việc xử lý, ứng phó với các vụ việc điều tra PVTM của nước ngoài cũng như sử dụng các công cụ PVTM được pháp luật cho phép để bảo vệ lợi ích chính đáng”, ông Chu Thắng Trung nhấn mạnh.
Theo Tạp chí điện tử Doanh nghiệp Việt Nam.
Đăng nhập để có thể bình luận bài viết