Chuyên mục

Hoàn thiện thể chế để “gỡ khó” và phát triển báo chí

DNTH: Luật Báo chí năm 2016 đã thể hiện rõ một bước phát triển so với các bộ luật báo chí trước đây. Về cơ bản đã đảm bảo hiệu lực trong quản lý, điều hành các hoạt động báo chí, tạo hành lang pháp lý cho báo chí phát triển. Tuy nhiên, vẫn còn có những bất cập, cần tiếp tục được sửa đổi, hoàn thiện. Vấn đề đặt ra việc hoàn thiện thể chế cho lĩnh vực báo chí là vô cùng quan trọng, đặc biệt, để “gỡ khó” và phát triển báo chí theo hướng bao quát các mô hình, vấn đề của truyền thông hiện đại và phát triển kinh tế báo chí.

Nhìn nhận về Luật Báo chí năm 2016, TS. Nguyễn Thị Thúy Hằng (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) chỉ ra bảy vấn đề cụ thể:

Thứ nhất, quy định về báo in, tạp chí in, báo điện tử và tạp chí điện tử. Khoản 15 Điều 3 quy định “Tạp chí điện tử là sản phẩm báo chí xuất bản định kỳ, đăng tin, bài có tính chất chuyên ngành, được truyền dẫn trên môi trường mạng”. Với định nghĩa này, chưa có sự phân biệt giữa báo và tạp chí điện tử, gây khó khăn trong công tác quản lý. Luật cũng chưa quy định về báo in và tạp chí in, gây lúng túng cho cơ quan báo chí khi thực hiện. Việc Luật Báo chí năm 2016 quy định “báo in là…, gồm báo in và tạp chí in”, “Báo điện tử là…, gồm báo điện tử và tạp chí điện tử” dễ gây nhầm lẫn, nên chăng ghi rõ báo chí in, báo chí điện tử để rõ ràng hơn.

Thứ hai, quy định về đối tượng thành lập cơ quan báo chí. Khoản 2 Điều 14 quy định: “Cơ sở giáo dục đại học theo quy định của Luật Giáo dục đại học; tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được tổ chức dưới hình thức viện hàn lâm, viện theo quy định của Luật Khoa học và Công nghệ; bệnh viện cấp tỉnh hoặc tương đương trở lên được thành lập tạp chí khoa học”. Tuy nhiên, việc thành lập các viện còn dễ dãi, chưa đảm bảo điều kiện nghiên cứu khoa học, có những viện được lập ra chỉ để có tạp chí. Vì vậy, cần có quy định cụ thể về đối tượng được thành lập tạp chí khoa học và tạp chí chuyên về giải trí.

Thứ ba, quy định về văn phòng đại diện, phóng viên thường trú. Khoản 2 Điều 22 quy định “Phóng viên thường trú hoạt động độc lập phải có thẻ nhà báo được cấp tại cơ quan báo chí cử phóng viên thường trú”. Tuy nhiên, trên thực tế ở nhiều văn phòng đại diện chỉ có trưởng văn phòng có thẻ nhà báo, còn các phóng viên còn lại không có, hoặc thậm chí có cơ quan báo chí đưa nhân viên hợp đồng làm nhân sự tại văn phòng đại diện ở địa phương. Vì vậy, “nhiều địa phương cho rằng cần sửa đổi, bổ sung quy định Điều 22 về văn phòng đại diện, phóng viên thường trú cho chặt chẽ hơn” (Nguyễn Thị Trường Giang chủ biên, 2020, tr.88). Luật Báo chí năm 2016 cũng chưa quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cộng tác viên, trong khi đây là đội ngũ đông đảo ở các địa phương.

Thứ tư, quy định về việc bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan báo chí. Khoản 2 Điều 23 quy định người đứng đầu cơ quan báo chí phải “Có thẻ nhà báo còn hiệu lực. Người đứng đầu cơ quan báo chí thuộc các tổ chức tôn giáo, tạp chí khoa học không áp dụng tiêu chuẩn này”. Tuy nhiên, trong thực tế ở nhiều địa phương, nhiều bộ, ngành bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan báo chí không theo tiêu chuẩn này, nhất là các cơ quan báo chí địa phương. Việc bổ nhiệm người không có chuyên môn báo chí, chưa có thẻ nhà báo, làm Tổng biên tập, người đứng đầu cơ quan báo chí khiến cho người làm báo và công chúng sụt giảm niềm tin vào việc thực thi pháp luật. Cần quy định rõ chế tài xử phạt nếu vi phạm quy định này.

20201231-084358
Báo chí tác nghiệp tại Hội nghị quốc gia về lĩnh vực báo chí

Thứ năm, về quyền và nghĩa vụ của nhà báo. Khoản 1 Điều 25 quy định: “Nhà báo là người hoạt động báo chí được cấp thẻ nhà báo” chưa bao quát hết các đối tượng đang thực hiện nghiệp vụ trong cơ quan báo chí. Điều 25, khoản 2, điểm c ghi quyền của nhà báo là “Được đến các cơ quan, tổ chức để hoạt động nghiệp vụ báo chí. Khi đến làm việc, nhà báo chỉ cần xuất trình thẻ nhà báo”. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều cơ quan, tổ chức yêu cầu nhà báo phải có thư giới thiệu hoặc giấy mời mới làm việc. Hoặc các cơ quan, tổ chức ở Trung ương, địa phương căn cứ vào tôn chỉ, mục đích của các tờ báo để lấy cớ từ chối tiếp nhà báo. Điều này gây khó khăn đối với quá trình tác nghiệp của nhà báo. Mặt khác, có những nhà báo lại dựa vào quy định này để đòi hỏi những điều trái với công việc của họ. Như vậy, Điều 25 cần được quy định cụ thể và chặt chẽ hơn.

Thứ sáu, điều kiện, quy định được cấp thẻ nhà báo. Ngoài thẻ nhà báo, Luật Báo chí năm 2016 không quy định về bất cứ thẻ nào trong hoạt động tác nghiệp của cơ quan báo chí. Tuy nhiên, thời gian qua nhiều phóng viên, cộng tác viên của các cơ quan báo chí tác nghiệp bằng các loại thẻ khác nhau, dễ gây nhầm lẫn với thẻ nhà báo, cần có chế tài để xử lý vi phạm này. Đồng thời, việc những phóng viên chưa đủ điều kiện được cấp thẻ nhà báo được cấp giấy giới thiệu theo hướng dẫn của Bộ Thông tin và Truyền thông cần được quy định cụ thể trong Luật Báo chí.

Thứ bảy, quy định về cải chính trên báo chí. Điều 42 về cải chính trên báo chí quy định: “Khi có văn bản kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về vụ việc mà báo chí đã đăng, phát là sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân thì cơ quan báo chí phải đăng, phát phần nội dung kết luận đó và nội dung cải chính, xin lỗi của cơ quan báo chí, của tác giả tác phẩm báo chí”. Tuy nhiên, Luật Báo chí năm 2016 chưa quy định cụ thể về việc gửi văn bản kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đến cơ quan báo chí để thực hiện cải chính theo quy định. Trên thực tế có nhiều trường hợp cải chính không đúng quy định nhưng chưa có chế tài để xử lý cụ thể.

Cũng theo TS. Hằng, ngoài các nội dung trên, những vấn đề về công nghệ truyền thông mới như chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo, báo chí dữ liệu,... chưa được đưa vào trong Luật Báo chí năm 2016, đòi hỏi luật báo chí mới cần bổ sung thêm nhiều nội dung thông tin.

Trong khi đó, nhìn nhận từ góc độ cơ quan báo chí, theo đại diện Báo Thanh Niên cho rằng, Luật Báo chí 2016 chưa có sự phân biệt và lượng hóa rõ ràng giữa báo và tạp chí điện tử, đây cũng là nguyên nhân khách quan bởi sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số dẫn đến ranh giới giữa “báo” và “tạp chí” trên nền tảng Internet hiện nay rất mong manh.

Tình trạng gỡ, sửa tin bài, cá biệt một số trường hợp việc sửa tin, bài vì động cơ vụ lợi cá nhân trên báo điện tử diễn ra khá phổ biến. Vấn đề này cần phải có quy định chặt chẽ và có chế tài xử lý nghiêm khắc hơn khi sửa đổi Luật Báo chí 2016.

3
Số hóa việc quản lý giúp cơ quan quản lý báo chí có thể giám sát được việc đăng, gỡ bài

Tiếp đó, Bộ Thông tin và Truyền thông cùng các cơ quan chức năng có các quy định cụ thể về quyền và trách nhiệm của tập thể, cá nhân nhà báo khi tương tác với mạng xã hội; hỗ trợ công nghệ kiểm soát thông tin trên mạng xã hội phát sinh từ các tác phẩm báo chí: phát triển công cụ duyệt bình luận trên fanpage phù hợp đặc điểm Việt Nam, phát hiện và xử lý các thông tin vu khống, sai sự thật làm ảnh hưởng đến uy tín, thương hiệu trên mạng xã hội…

Đại diện cơ quan báo chí cũng cho rằng, cần sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí 2016 theo hướng cần có những quy định riêng kết hợp với Luật An ninh mạng 2018 nhằm kiểm soát hiệu quả hơn nguồn thông tin trên các nền tảng mạng xã hội. Cùng với đó, nên quy định theo hướng mở rộng hoạt động kinh doanh khác theo quy định pháp luật của cơ quan báo chí chứ không chỉ hạn chế các lĩnh vực như Luật Báo chí hiện hành để tạo điều kiện cho cơ quan báo chí có nguồn thu phát triển hoạt động báo chí, cũng phù hợp với việc xác định cơ quan báo chí là doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện…

Nhìn nhận từ góc độ nhà nghiên cứu, PGS.TS. Bùi Chí Trung Viện Đào tạo Báo chí và Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội nêu hai vấn đề quan trọng về: Sửa Luật Báo chí 2016 để bao quát các mô hình và vấn đề của truyền thông hiện đại và để phát triển kinh tế báo chí.

Trong đó, về nội dung sửa luật để bao quát các mô hình và vấn đề của truyền thông hiện đại, theo phân tích của chuyên gia, thì Luật Báo chí 2016 hiện mới quy định bốn loại hình báo chí cơ bản (báo in, phát thanh, truyền hình, báo điện tử), nhưng trên thực tế còn có nhiều loại hình hoạt động thông tin đại chúng có tính chất như báo chí hoặc có liên quan, tác động sâu rộng tới hoạt động báo chí (như: mạng xã hội, trang thông tin điện tử (web), ứng dụng (app) trong nước và xuyên biên giới cung cấp thông tin, video, chương trình phát thanh, truyền hình,...). Bên cạnh đó, với xu thế hội tụ công nghệ, truyền thông đa phương tiện, truyền dẫn đa nền tảng (truyền dẫn trên các hạ tầng mạng viễn thông như cáp (cable), di động, truyền hình vệ tinh (DTH) và đặc biệt là sự nở rộ của các dạng thức truyền phát trên môi trường internet qua các website, ứng dụng trong nước và thế giới vào Việt Nam (OTT); những nền tảng mới này có ưu thế hơn các dạng thức truyền thống là cho phép tương tác với người đọc, người nghe, người xem tại thời điểm phát thực.

Trong môi trường Internet “không biên giới”, có những xu thế mới đặt ra nhiều vấn đề cho công tác quản lý báo chí, ví dụ như trường hợp các cơ quan báo chí chủ động xây dựng ứng dụng (app), tự phân phối nội dung trên Internet, hoặc mở thêm kênh phân phối nội dung báo chí trên các nền tảng mạng xã hội trong nước xuyên biên giới (mở kênh trên Youtube, TikTok, mở fanpage trên Facebook, Lotus, Zalo,…). Trong quá trình hoạt động, có những trường hợp xảy ra sai sót hoặc tranh chấp, vi phạm trên những nền tảng xuyên biên giới, chưa tuân thủ pháp luật Việt Nam. Sự phát triển của công nghệ vận động liên tục, sẽ khó có một hành lang pháp lý nào có thể bao quát trọn vẹn trong một thời gian dài, tuy nhiên, để quá trình chuyển đổi số báo chí được triển khai mạnh mẽ hơn, để nội dung thông tin lan tỏa tới công chúng đa dạng, thuận tiện, mọi nơi, mọi lúc và đặc biệt là có cơ sở để các cơ quan báo chí triển khai những mô hình kinh doanh và đa dạng hóa nguồn thu,… cần có những quy định mới nhằm đảm bảo mặt bằng phát triển chung và công bằng giữa báo chí với các loại hình truyền thông khác, cũng như điều chỉnh các vấn đề mới phát sinh của sự phát triển.

2
Lãnh đạo các cơ quan báo chí được bồi dưỡng kiến thức về quản lý báo chí

PGS.TS. Bùi Chí Trung cũng chỉ ra hàng loạt những câu hỏi xuất phát từ thực tiễn cần có hành lang pháp lý phù hợp hơn, như: Việc ngày càng nhiều báo điện tử phát triển các chuyên trang media, video, chuyên trang phát thanh (radio podcast), thậm chí tổ chức sản xuất các bản tin/chuyên đề (giống hệt như dạng bản tin thời sự, chuyên đề truyền hình) để phát trên Internet tại địa chỉ tên miền được cấp phép hoạt động là đúng hay chưa đúng, là phù hợp hay chưa phù hợp? Nếu chưa đúng hay chưa phù hợp thì tiêu chí nào, cơ sở cứ nào để thẩm định, đánh giá? Các dạng thức đó có tạo ra xung đột, cạnh tranh trực tiếp với hoạt động của các đài phát thanh - truyền hình hay không? Nhìn từ bức tranh tổng thể của hệ thống báo chí truyền thông, sự “nở rộ” các trang media này có tạo ra sự lãng phí nguồn lực xã hội, chạy theo “trào lưu” hay đúng là địa hạt mới để báo chí phát triển? Những câu hỏi này cần được nhận thức và trả lời thấu đáo để tạo sự phát triển cho báo chí trong khuôn khổ của quy định, của pháp luật Việt Nam…

Ở phạm vi rộng hơn, trong thời gian qua, cơ quan quản lý nhà nước ở Việt Nam đã gặp không ít khó khăn trong việc quản lý dịch vụ cung cấp nội dung truyền hình (gồm: phim truyện, chương trình âm nhạc, chương trình truyền hình - TV show,...) theo yêu cầu trên Internet (gọi là OTT VOD) của doanh nghiệp nước ngoài có thu phí như: Netflix, iFlix, Wetv, Spotify,... cung cấp xuyên biên giới vào lãnh thổ Việt Nam. Những hoạt động vi phạm quy định của Việt Nam về quản lý báo chí đã bị cơ quan quản lý nhà nước phát hiện và kiên quyết xử phạt. Một số sai phạm được phát hiện trên những nền tảng mạng xã hội có chia sẻ video như: Zing TV, Keeng Movies,... Nguyên nhân xuất phát từ đơn vị chủ quản thực hiện không đúng giấy phép, cung cấp dịch vụ OTT VOD (gồm chủ yếu là phim, các chương trình phát thanh, truyền hình), không được cơ quan báo chí có giấy phép hoạt động biên tập, kiểm duyệt trước khi công chiếu. Trong khi đó, một số mạng xã hội có tính phí người xem thông qua hình thức “nâng cấp thành viên” lại bị một số đối tượng lợi dụng quy định chỉ cung cấp VOD để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ theo Nghị định số 06/2016/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam.

Thực tế, mâu thuẫn tiếp tục xuất hiện khi nhiều đơn vị sự nghiệp có năng lực và uy tín có nhu cầu được cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền - OTT TV để kinh doanh các sản phẩm của đài nhưng lại không thuộc đối tượng được cấp phép theo quy định tại Điều 51 Luật Báo chí 2016. Để đẩy mạnh chuyển đổi số trong lĩnh vực báo chí ở Việt Nam hiện nay, cần hoàn thiện hành lang pháp lý, xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển các nền tảng công nghệ số trong nước, phân phối nội dung thông tin báo chí. Cùng với đó, cần mở rộng cơ quan truyền thông chủ lực đa phương tiện, tổ hợp báo chí - truyền thông, báo chí trên nền tảng số. Tiếp đó, cần xây dựng công cụ, nền tảng thu thập, xử lý dữ liệu, đánh giá, dự báo, phản ánh chất lượng báo chí. Các chỉ số đánh giá truyền thông xã hội dựa trên tác động của các nội dung thông tin trên không gian mạng từ các báo nhằm bảo đảm tính khách quan, trung thực phục vụ công tác quản lý báo chí cũng cần được nghiên cứu, đầu tư cho phù hợp. Luật Báo chí 2016 nếu được sửa đổi cũng cần đề cập về những vấn để đang được sự quan tâm ở cấp độ toàn cầu như: sở hữu trí tuệ, vấn đề dữ liệu độc giả, vấn đề quyền trải nghiệm của người sử dụng,…

“Cũng cần lưu ý rằng, bộ luật hiện hành đang nhìn nhận báo chí như hoạt động “của con người tạo ra”, chưa đề cập đến những điểm mới từ sự phát triển công nghệ như “robot hóa”, “tự động hoá” quy trình sản xuất, biên tập nội dung. Khuôn khổ pháp lý hiện nay cũng rất khó áp dụng trong thực tiễn triển khai các mô hình liên kết giữa báo chí với công ty công nghệ, nhà mạng viễn thông, doanh nghiệp quảng cáo, các nền tảng xuyên biên giới,...”, PGS.TS. Bùi Chí Trung phân tích.

44444444444444444
Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Thanh Lâm

Thực tế, ngày 30/3/2022, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có Báo cáo số 57/BC-BTTTT báo cáo Chính phủ về kết quả nghiên cứu, rà soát Luật Báo chí năm 2016 và kiến nghị sửa đổi, bổ sung. Báo cáo nêu đã ra 27 nội dung, nhóm nội dung có quy định bất cập, không phù hợp với thực tiễn của pháp luật báo chí.

Ngày 10/6/2023, vấn đề  “Cơ sở khoa học và thực tiễn sửa đổi Luật Báo chí 2016” tiếp tục được bàn bạc, hiến kế từ các chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà quản lý ở tầm Hội thảo quốc gia nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho báo chí hoạt động, phát triển; đồng thời, khắc phục những tồn tại, bất cập, bổ sung quy định để điều chỉnh kịp thời những vấn đề phát sinh trong thực tiễn.

Theo Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Thanh Lâm, “Dù góc nhìn dưới lăng kính cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương và các cơ quan báo chí hay dưới góc độ khoa học của các nghiên cứu, các giảng viên chuyên ngành báo chí và luật pháp thì đây sẽ là những tiếng nói tâm huyết nhất, với mục tiêu đóng góp vì một nền báo chí cách mạng Việt Nam ngày càng phát triển theo đúng định hướng của Đại hội XIII của Đảng: “Xây dựng nền báo chí, truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại”.

Theo Tạp chí điện tử Doanh nghiệp & Thương hiệu nông thôn.



Bình luận - Thảo luận